Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính hay còn được viết tắt là COPD – Chronic Obstructive Pulmonary Disease. Bệnh đặc trưng bởi các triệu chứng hô hấp dai dẳng như khó thở, ho khạc đờm và tắc nghẽn đường dẫn khí do phản ứng bất thường của đường thở với khói, bụi hoặc khí độc hại.

Cần nghĩ đến chẩn đoán COPD và thực hiện đo chức năng hô hấp ở các bệnh nhân có bất kỳ biểu hiện lâm sàng nào sau đây:

  • Khó thở: tăng dần theo thời gian, nặng hơn khi tập thể dục và diễn ra liên tục
  • Khò khè tái phát
  • Ho mạn tính: có thể không liên tục hoặc chỉ ho khan
  • Nhiễm trùng đường hô hấp dưới tái phát
  • Có các yếu tố nguy cơ: Tiền sử hút thuốc lá, hút thuốc lào, tiếp xúc khói bụi (gồm cả bụi từ đốt nhiên liệu, bụi liên quan đến nghề nghiệp và các chất hóa học khác), các yếu tố liên quan đến bản thân bệnh nhân (gen, bất thường phát triển, sinh non, cân nậng khi sinh thấp, …)

Chẩn đoán xác định COPD khi kết quả đo chức năng hô hấp có tình trạng rối loạn thông khí tắc nghẽn không hồi phục sau nghiệm pháp hồi phục phế quản.

GOLD (Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease) là chiến lược toàn cầu về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hàng năm đưa ra những hướng dẫn về chẩn đoán và điều trị COPD dựa trên những bằng chứng khoa học tin cậy. Năm 2023, GOLD cũng đưa ra những cập nhật trong chẩn đoán và điều trị COPD

 

Về phân loại giai đoạn COPD, tương tự như GOLD các năm trước đó, GOLD 2023 vẫn đánh giá mức độ tắc nghẽn đường thở gồm 4 mức độ từ nhẹ (GOLD 1) đến rất nặng (GOLD 4) dựa trên chỉ số FEV1 sau nghiệm pháp hồi phục phế quản. Về phân nhóm COPD, GOLD 2023 có thay đổi khi gộp nhóm C và nhóm D thành nhóm E để làm nổi bật sự liên quan lâm sàng của các đợt cấp như hình dưới đây:

Mục tiêu điều trị COPD nhằm: giảm triệu chứng (giảm nhẹ các triệu chứng, tăng khả năng gắng sức và nâng cao tình trạng sức khỏe) và giảm nguy cơ (bảo vệ khỏi các đợt cấp, ngăn bệnh tiến triển và giảm thiểu tử vong). Các phương pháp điều trị gồm điều trị dùng thuốc và không dùng thuốc cùng với tránh tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ (khói bụi, thuốc lá…). GOLD 2023 đề xuất khởi trị COPD dựa trên đánh giá qua phân nhóm ABE như sau:

Sau đó các bệnh nhân sẽ được tiếp tục đánh giá tại các lần tái khám dựa trên triệu chứng, mức độ khó thở và số đợt cấp cũng như kĩ thuật sử dụng các dụng cụ phân phối thuốc và các điều trị không dùng thuốc để từ đó cân nhắc tăng, giảm mức điều trị hay thay đổi thuốc hoặc dụng cụ hít khác. Biểu đồ theo dõi điều trị bằng thuốccủa GOLD 2023 sau đây hướng dẫn sự thay đổi trong phác đồ điều trị của các bệnh nhân với các biểu hiện lâm sàng cụ thể:

Điều trị không dùng thuốc trong COPD giai đoạn ổn định cũng được nhắc lại trong GOLD 2023 bao gồm: giáo dục và tập phục hồi chức năng hô hấp, tiêm phòng vaccine, chế độ dinh dưỡng hợp lý, chăm sóc giảm nhẹ, điều trị thiếu oxy máu, điều trị tăng CO2 máu và phẫu thuật.

Giáo dục, tự quản lí và phục hồi chức năng hô hấp
  • Giáo dục là cần thiết để thay đổi kiến thức của bệnh nhân nhưng không có bằng chứng nào cho thấy chỉ sử dụng nó sẽ thay đổi hành vi của bệnh nhân
  • Tự quản lý giáo dục với sự hỗ trợ của chuyên gia có hoặc không sử dụng kế hoạch hành động bằng văn bản được khuyến nghị để ngăn ngừa các biến chứng trầm trọng như nhập viện (Bằng chứng B)
  • Phục hồi chức năng được chỉ định ở tất cả bệnh nhân có các triệu chứng liên quan và/hoặc có nguy cơ đợt cấp (Bằng chứng A)
  • Hoạt động thể chất là một yếu tố dự báo chắc chắn về tỷ lệ tử vong (Bằng chứng A). Những người bị COPD nên được khuyến khích tăng mức độ hoạt động thể chất mặc dù chúng ta vẫn chưa biết làm thế nào để đảm bảo tốt nhất khả năng thành công
Tiêm phòng
  • Tiêm phòng cúm được khuyến cáo ở những người bị COPD (Bằng chứng loại B)
  • WHO và CDC khuyến nghị tiêm vắcxin SARS-CoV-2 (COVID-19) cho những người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (Bằng chứng B)
  • CDC khuyến nghị một liều vắcxin liên hợp phế cầu khuẩn 20 (PCV20); hoặc một liều vắc-xin liên hợp phế cầu khuẩn 15 (PCV15) sau đó là vắc-xin polysacarit phế cầu khuẩn 23 (PPSV23) ở những người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (Bằng chứng B)
  • Vắcxin phế cầu khuẩn đã được chứng minh là làm giảm tỷ lệ mắc bệnh viêm phổi mắc phải trong cộng đồng và các đợt cấp ở những người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (Bằng chứng loại B)
  • CDC khuyến nghị tiêm vắcxin Tdap (dTaP/dTPa) để bảo vệ khỏi bệnh ho gà cho những người mắc bệnh COPD chưa được tiêm vắc-xin ở tuổi thiếu niên và vắc-xin Zoster để bảo vệ chống lại bệnh zona cho những người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính trên 50 tuổi
Dinh dưỡng
  • Bổ sung dinh dưỡng nên được xem xét ở bệnh nhân suy dinh dưỡng với COPD (Bằng chứng loại B)
Chăm sóc giảm nhẹ và chăm sóc cuối đời
  • Tất cả các bác sĩ lâm sàng quản lý bệnh nhân COPD nên nhận thức được hiệu quả của các phương pháp giảm nhẹ để kiểm soát triệu chứng và sử dụng chúng trong thực hành của họ (Bằng chứng D)
  • Chăm sóc cuối đời nên bao gồm các cuộc thảo luận với bệnh nhân và gia đình của họ về quan điểm của họ đối với hồi sức, chỉ dẫn trước và nơi mất (Bằng chứng D)
Điều trị giảm oxy máu
  • Ở những bệnh nhân bị giảm oxy máu nghiêm trọng khi nghỉ ngơi, liệu pháp oxy dài hạn được chỉ định (Bằng chứng A)
  • Ở những bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ổn định và giảm độ bão hòa vừa phải do nghỉ ngơi hoặc tập thể dục, không nên chỉ định điều trị oxy dài hạn một cách thường xuyên. Tuy nhiên, các yếu tố của từng bệnh nhân có thể được xem xét khi đánh giá nhu cầu bổ sung oxy của bệnh nhân (Bằng chứng A)
  • Mức bão hòa oxy khi nghỉ ngơi không loại trừ sự tiến triển của tình trạng thiếu oxy nghiêm trọng khi di chuyển bằng đường hàng không. (Bằng chứng C)
Điều trị tăng CO2 máu
  • Ở những bệnh nhân bị tăng CO2 máu mãn tính nghiêm trọng và có tiền sử nhập viện vì suy hô hấp cấp tính, có thể xem xét thông khí không xâm nhập dài hạn (Bằng chứng B)
Nội soi phế quản can thiệp và phẫu thuật
  • Phẫu thuật giảm thể tích phổi nên được xem xét ở những bệnh nhân chọn lọc với khí phế thũng thùy trên (Bằng chứng A)
  • Phẫu thuật cắt bỏ bóng nước lớn có thể được xem xét ở những bệnh nhân được chọn lọc (Bằng chứng C)
  • Ở một số bệnh nhân bị khí phế thũng tiến triển, can thiệp nội soi phế quản làm giảm thể tích phổi cuối thì thở ra và cải thiện khả năng chịu đựng gắng sức, chất lượng cuộc sống và chức năng phổi sau 612 tháng điều trị. Van nội phế quản (Bằng chứng A); Coil phổi (Bằng chứng B); Cắt bỏ phổi (Bằng chứng B)
  • Ở những bệnh nhân bị COPD rất nặng (bệnh tiến triển, điểm BODE từ 7 đến 10 và không phải là đối tượng để giảm thể tích phổi), ghép phổi có thể được xem xét với ít nhất một trong các điều kiện sau: (1) tiền sử nhập viện vì đợt cấp liên quan với tăng CO2 cấp tính (PCO2> 50 mmHg); (2) tăng áp lực động mạch phổi và/hoặc tâm phế mạn, mặc dù đã điều trị bằng oxy; hoặc (3) FEV1 < 20% và DLCO < 20% hoặc khí phế thũng phân bố đồng nhất (Bằng chứng C)

Tài liệu tham khảo: Trung Tâm Hô Hấp – Bệnh Viện Bạch Mai

Người sưu tầm: Phạm Hồng Khánh 

Chia sẻ ngay