Áp xe phổi (tiếng Anh là Lung Abscess) là một bệnh lý nhiễm trùng xảy ra ở mô phổi, sau khi người bệnh mắc các viêm nhiễm cấp tính như viêm phổi, tắc mạch phổi nhiễm khuẩn… Khi mắc bệnh, nhu mô phổi của người bệnh sẽ bị hoại tử, lâu ngày hình thành dịch mủ và các ổ áp xe chứa mủ, xác bạch cầu chết và các vi sinh vật gây bệnh.
Phân loại
1. Dựa vào thời gian tiến triển của bệnh
· Áp xe phổi cấp tính: Khi thời gian tiến triển của bệnh kéo dài dưới 4 – 6 tuần.
· Áp xe phổi mạn tính: Khi thời gian tiến triển của bệnh kéo dài trên 6 tuần.
2. Dựa vào cơ địa của người bệnh
· Áp xe nguyên phát: Là tình trạng nhiễm trùng nhu mô phổi mà không có tổn thương hay bệnh lý nào trước đó.
· Áp xe thứ phát: Là tình trạng nhiễm trùng nhu mô phổi xảy ra trên các tổn thương sẵn có như hang lao, giãn phế quản, hoặc ổ di bệnh do nhiễm trùng huyết…
Các giai đoạn
Nguyên nhân gây ép xe phổi
- Vi khuẩn kỵ khí:Gồm các vi khuẩn Bacteroides melaninogenicus, Fusobacterium nucleatum, Bacteroid fragilis peptococcus, Peptostreptococcus… Đây là những vi khuẩn thường gặp nhất, chiếm tỷ lệ hơn 60% các nguyên nhân gây áp xe phổi.
- Tụ cầu vàng: Bệnh cảnh lâm sàng khá nặng nề khi tổn thương nhu mô phổi và màng phổi, có nguy cơ hội chứng suy phổi, nhiễm trùng, nhiễm độc nặng… cho người bệnh.
- Klebsiella Pneumoniae: Tiến triển lan rất nhanh, bệnh cảnh rất nặng, nguy cơ tử vong cao.
- Những vi khuẩn khác như phế cầu khuẩn, liên cầu nhóm A hay tan máu, các vi khuẩn Gram (-) như Pseudomonas aeruginosa, Haemophilus influenzae cũng tăng nguy cơ mắc bệnh.
- Ký sinh trùng: Thường gặp nhất là Amip, có thể là nguyên phát nhưng đa số các trường hợp là thứ phát sau áp xe gan, ruột. Tổn thương này thường gặp ở đáy phổi phải, sát với cơ hoành và thường kèm theo thương tổn ở màng phổi, các triệu chứng đặc trưng là ho có đờm màu socola và có lẫn máu tươi.
- Một số nguyên nhân khác có thể gây bệnh là kén phế quản bội nhiễm, ung thư nguyên phát hoại tử, giãn phế quản, hang lao, kén phổi bẩm sinh, các chấn thương lồng ngực hở, đặt nội khí quản…
Ai có nguy cơ mắc bệnh?
Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi (bao gồm người lớn và trẻ em), tuy nhiên một số đối tượng có nguy cơ cao hơn gồm:
- Người bị chấn thương lồng ngực như có mảnh đạn, dị vật trong phổi;
- Sau gây mê đặt nội khí quản, mở khí quản hoặc người bệnh thở máy;
- Sau khi phẫu thuật tai – mũi – họng hoặc răng – hàm – mặt;
- Cơ địa người bệnh mắc các bệnh mạn tính như đái tháo đường khiến thể trạng suy kiệt, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), giãn phế quản;
- Người bệnh sử dụng corticoid hoặc các thuốc ức chế miễn dịch gây suy giảm hệ miễn dịch;
- Người có thói quen uống rượu bia, hút thuốc lá thường xuyên;
- Người bệnh phải lưu catheter tĩnh mạch trung tâm trong thời gian dài.
Triệu chứng thường gặp
Áp-xe phổi do nguyên nhân nào cũng sẽ tiến triển theo 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn sẽ có triệu chứng đặc trưng riêng biệt. Cụ thể là:
Giai đoạn 1: Giai đoạn viêm
Hầu hết các trường hợp đều bắt đầu rầm rộ như một bệnh viêm phổi nặng, người bệnh sốt cao lên tới 39-40 độ C kèm theo môi khô, lưỡi bẩn, hơi thở có mùi hôi. Một số bệnh nhân có thể xuất hiện triệu chứng tiểu tiện ít, nước tiểu sẫm màu. Một số ít trường hợp khác lại khởi phát từ từ như hội chứng cúm.
Giai đoạn 2: Giai đoạn hộc mủ
Đây là giai đoạn các triệu chứng áp xe phổi thể hiện rõ ràng nhất, giúp chẩn đoán tình trạng bệnh chính xác.
- Triệu chứng bệnh có thể xuất hiện sớm 5 – 6 ngày, hoặc có thể xảy ra rất muộn khoảng 50 – 60 ngày sau giai đoạn khởi phát bệnh.
- Các triệu chứng gồm ho, đau vùng ngực. Người bệnh có thể ho mủ, mủ có thể ộc ra nhiều khoảng 300 – 500ml trong vòng 24 giờ hoặc mủ khạc ít nhưng kéo dài.
- Tính chất mủ: Nếu tác nhân gây bệnh là virus, mủ sẽ có mùi thối; tác nhân là amip thì mủ có màu như socola; còn do áp xe đường mật gây vỡ thông lên phổi thì mủ có màu vàng như mật.
- Người bệnh sau ộc mủ có thể thấy triệu chứng sốt giảm dần, cảm thấy dễ chịu hơn. Trường hợp đã khạc mủ nhiều lần mà nhiệt độ vẫn cao, có thể là do còn ổ áp xe khác chưa vỡ mủ.
Giai đoạn 3: Giai đoạn thành hang
Ở giai đoạn này, người bệnh có thể vẫn còn khạc mủ nhưng ít hơn. Nếu thân nhiệt người bệnh tăng lên một cách đột ngột, chứng tỏ có thể mủ dẫn lưu kém, còn ứ lại nhiều trong phổi.
Các biến chứng nguy hiểm
Áp xe phổi nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể tiến triển tốt, bệnh khỏi hoàn toàn sau một thời gian để lại sẹo xơ phổi. Trường hợp không điều trị kịp thời, hoặc điều trị không đúng cách, không đáp ứng tốt có thể tiến triển thành áp xe mạn tính hoặc để lại hang. Lúc này người bệnh có nguy cơ gặp phải các biến chứng nguy hiểm như:
- Giãn phế quản quanh ổ áp xe.
- Màng phổi và màng tim xuất hiện dịch mủ do vỡ ổ áp xe;
- Nhiễm trùng huyết;
- Áp xe não, viêm màng não;
- Ho ra máu nặng;
- Suy kiệt, thoái hóa các cơ quan, thậm chí đe dọa tính mạng người bệnh.
Phương pháp chẩn đoán
Đầu tiên, bác sĩ sẽ hỏi bệnh, xem xét lịch sử bệnh và thăm khám các triệu chứng, dựa vào đó sẽ chỉ định các phương pháp cận lâm sàng tiếp theo để việc chẩn đoán được chính xác nhất.
- Xét nghiệm máu: Kết quả xét nghiệm máu cho thấy tăng số lượng bạch cầu, hoặc các xét nghiệm khác như CRP-hs tăng đều thể hiện sự nhiễm trùng.
- Xét nghiệm mẫu đờm hoặc mủ: Xét nghiệm này được chỉ định khi bác sĩ nghi ngờ người bệnh có các dấu hiệu của bệnh.
- Chụp X-quang hoặc CT scan: Hình ảnh điển hình của áp xe phổi trên phim X-quang là dạng hình tròn có bờ không đều, khá dày có chứa dịch bên trong. Đây cùng là cách xác định chính xác vị trí ổ áp xe.
- Nội soi phế quản: Bác sĩ dùng một ống nhỏ có đèn và camera ở đầu đưa qua mũi hoặc miệng, vào trong lòng khí phế quản để lấy một mẫu đờm hoặc mô phổi ra bên ngoài. Phương pháp này được sử dụng trong trường hợp người bệnh điều trị thuốc kháng sinh nhưng bệnh không thuyên giảm, nghi ngờ đường thở bị bít tắc hoặc hệ miễn dịch suy giảm.
Phương pháp điều trị bệnh áp xe phổi
Có rất nhiều phương pháp điều trị áp-xe phổi khác nhau tùy theo tình trạng, mức độ tổn thương mô phổi của người bệnh. Trong đó, phương pháp điều trị nội khoa khá dài, thường kéo dài trong khoảng 4 -6 tuần. Do đó, đòi hỏi người bệnh phải phối hợp và tuân theo chỉ định điều trị của bác sĩ để đạt hiệu quả tốt nhất.
- Điều trị nội khoa
· Điều trị bằng thuốc kháng sinh
-
- Phối hợp ít nhất 2 loại kháng sinh, có thể dùng đường tiêm truyền tĩnh mạch hoặc đường tiêm bắp, dùng liều cao ngay từ đầu.
- Dùng kháng sinh ngay sau khi lấy được bệnh phẩm xét nghiệm vi sinh vật từ người bệnh. Có thể thay đổi kháng sinh dựa vào đặc điểm lâm sàng và kháng sinh đồ. Tuy nhiên, lưu ý sự thay đổi này cần có sự chỉ định của bác sĩ, người bệnh không được tự ý điều chỉnh.
- Sử dụng thuốc kháng sinh trong thời gian tối thiểu là 4 tuần. Quá trình này có thể kéo dài lên đến 6 tuần tùy vào đáp ứng lâm sàng và kết quả X-quang phổi của người bệnh.
· Dẫn lưu ổ áp xe
-
- Dẫn lưu tư thế vỗ rung lồng ngực: Dựa vào phim chụp X-quang phổi thẳng nghiêng để chọn tư thế dẫn lưu, vỗ rung lồng ngực cho người bệnh. Có thể dẫn lưu tư thế nhiều lần/ngày, để người bệnh ở tư thế dẫn lưu tốt nhất, thời gian tăng dần kết hợp với vỗ rung. Việc vỗ rung cũng tăng dần theo thời gian, có thể vỗ rung 2 – 3 lần/ngày, lúc đầu khoảng 5 phút, sau đó tăng lên 10 – 20 phút.
- Có thể hút mủ ở phế quản, dẫn lưu ổ áp xe nhờ thực hiện phương pháp nội soi phế quản ống mềm. Bên cạnh đó, việc soi phế quản ống mềm còn giúp phát hiện các tổn thương làm tắc nghẽn phế quản, hoặc gắp bỏ dị vật trong phế quản nếu có.
- Chọc dẫn lưu mủ qua da: Phương pháp này áp dụng đối với những ổ áp xe phổi ở ngoại vi, tức là những ổ áp xe không thông với phế quản, ổ áp xe ở sát thành ngực hoặc dính với màng phổi. Sử dụng một ống thông chuyên dụng đặt vào ổ áp xe, hút dẫn lưu liên tục.
- Điều trị phẫu thuật: Khoảng 10% các trường hợp ổ áp xe được bác sĩ chỉ định thực hiện can thiệp ngoại khoa, chủ yếu là tiến hành phẫu thuật để cắt phân thùy phổi, hoặc cắt một bên phổi tùy theo mức độ thương tổn. Các trường hợp được chỉ định điều trị phẫu thuật gồm:
- Khi ổ áp xe lớn hơn 10cm;
- Đã áp dụng các phương pháp điều trị nội khoa nhưng không hiệu quả;
- Người bệnh ho ra máu tái đi tái lại nhiều lần, đe dọa tính mạng;
- Áp xe phổi kết hợp với giãn phế quản gây ra khu trú nặng;
- Xuất hiện các biến chứng rò phế quản – khoang màng phổi điều trị nội khoa không có kết quả;
- Ung thư phổi áp xe hóa ở giai đoạn khối u còn phẫu thuật được.
- Điều trị hỗ trợ
- Thực hiện chế độ ăn uống khoa học, cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng và năng lượng cho cơ thể người bệnh, đặc biệt là protein và vitamin;
- Bổ sung nước, duy trì cân bằng nước và điện giải;
- Giảm các triệu chứng đau, hạ sốt;
- Sử dụng liệu pháp thở oxy nhằm hỗ trợ hô hấp cho người bệnh
Phòng ngừa áp-xe phổi bằng cách nào?
Bệnh áp xe phổi là bệnh lý nhiễm trùng nguy hiểm ở phổi, đe dọa tính mạng người bệnh nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Do đó, việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa bệnh luôn được ưu tiên trên hết.
- Luôn giữ vệ sinh và điều trị tốt các nhiễm khuẩn ở răng, miệng, mũi và họng để tránh sự viêm nhiễm từ trên lan xuống gây áp xe phổi;
- Chú ý các biện pháp giữ ấm cho cơ thể, nhất là vào mùa đông;
- Phòng tránh các dị vật rơi vào đường thở. Thận trọng khi tiến hành các thủ thuật ở vùng răng hàm mặt, tai mũi họng để tránh các mảnh vụn rơi vào khí phế quản;
- Tăng cường sức đề kháng cho cơ thể bằng cách tập thể dục thường xuyên, bổ sung các loại hoa quả, trái cây và thực phẩm dinh dưỡng chứa nhiều vitamin C và nhóm B;
- Đến ngay cơ sở y tế để được thăm khám, chẩn đoán và điều trị bệnh hiệu quả khi xuất hiện các triệu chứng ho, sốt cao, đau ngực,…
Phạm Hồng Khánh – Khoa Nội hô hấp