Lịch sử xuất hiện các mô thức điều trị ung thư quy ước
• 2000 năm trước công nguyên: Phẫu thuật • 1896: Xạ trị (liệu pháp tia X) • 1907: Xạ trị áp sát (liệu pháp Curie) • Thập niên 40’ TK XX: Hóa trị, Nội tiết • Thập niên 70’: Liệu pháp miễn dịch • Thập niên 90’: Liệu pháp nhắm đích.

Thế nào là liệu pháp đa mô thức?
• Là sự phối hợp nhiều phương pháp vào việc điều trị bệnh ung thư, nhằm:
– Giảm thiểu tối đa khả năng thất bại (tại chỗ, tại vùng hoặc di căn xa)
– Có thể tăng khả năng bảo tồn cơ quan
– Cải thiện thời gian sống còn cũng như chất lượng cuộc sống

Cơ sở của liệu pháp đa mô thức
 Giảm khả năng xuất hiện những dòng tế bào kháng trị, vì nếu tế bào kháng với mô thức này vẫn có thể nhạy với mô thức khác.
 Các mô thức khi được phối hợp sẽ bù trừ các nhược điểm của nhau.Vai trò của mỗi mô thức trong liệu pháp kết hợp.

Kết luận
• Liệu pháp đa mô thức là một bước tiến quan trọng trong việc chữa trị bệnh UT. Qua sự tìm tòi nghiên cứu và tiến hành liên tục các thử nghiệm lâm sàng, đến nay một số bệnh UT đã:
• Cải thiện tiên lượng sống rõ rệt: UT vú, UT tuyến tiền liệt, UT đại trực tràng, lymphôm không Hodgkin, sarcôm cơ vân, UT cổ tử cung, UT phổi không TB nhỏ, UT trực tràng , bướu sao bào thoái sản, một số UT trẻ em.
• Tăng kiểm soát bệnh tại chỗ: UT thực quản, bệnh Hodgkin, UT phổi TB nhỏ gđoạn khu trú
• Giúp tránh cuộc mổ tàn phá, bảo tồn cơ quan: UT ống hậu môn, UT bàng quang, UT vùng đầu cổ, sarcôm mô mềm ở chi, UT vú
• Còn một số UT khó trị : UT tụy, UT gan, mêlanôm ác …, liệu pháp nhắm đích đang là hứa hẹn
• Với đà tiến bộ của y học và các ngành khoa học khác, nhất là sinh học, liệu pháp đa mô thức chắc chắn sẽ có nhiều thay đổi theo hướng hiệu quả hơn và chuyên biệt hơn (cá thể hóa).

BSCKI. Phạm Tiến Bình – Trung tâm UB&YHHN

Chia sẻ ngay